Những cách tiêu diệt tàu sân bay Tàu_sân_bay

Tàu sân bay là chủ lực của hạm đội, xung quanh nó luôn được bố trí nhiều tàu khu trục, tàu hộ tống, tàu ngầm để bảo vệ nó. Do vậy, đánh chìm hoặc đánh trọng thương tàu sân bay là rất khó với những nước có tiềm lực quân sự nhỏ bé, nhưng không phải là quá khó với những cường quốc quân sự. Trong Thế chiến thứ hai, đã có 40 tàu sân bay bị đánh chìm (20 tàu của Nhật, 12 tàu của Mỹ, 8 tàu của Anh), hàng chục tàu khác bị đánh hỏng nặng bởi những vũ khí khác nhau.

Sau cuộc chiến này, chỉ có 1 chiếc tàu sân bay hạng nhẹ của Mỹ bị đánh chìm ở Việt Nam và 1 tàu sân bay hạng nhẹ của Anh bị đánh chìm ở Argentina, không có chiếc tàu sân bay lớn nào bị đánh chìm, bởi tất cả các cuộc chiến tranh trên thế giới sau thế chiến thứ 2 đều chỉ là chiến tranh phi đối xứng, nước lớn (Mỹ, Anh, Pháp) tấn công nước nhỏ hơn nhiều (Iraq, Libya, Triều Tiên...). Các nước nhỏ thường không có đủ lực lượng và trang bị để tấn công tàu sân bay đối phương, nên hoạt động của tàu sân bay là tương đối an toàn, do vậy nhiều người nghĩ tàu sân bay là một thứ vũ khí "bất khả xâm phạm". Tuy nhiên, đó là với những quốc gia có sức mạnh quân sự yếu, còn với những cường quốc có vũ khí hiện đại như Nga, Mỹ, Trung Quốc thì việc đánh chìm tàu sân bay đối phương không phải là quá khó, bởi họ có những vũ khí chuyên dụng có thể dùng để đánh chìm tàu sân bay.

Trong tương lai, những vũ khí công nghệ cao ngày càng đa dạng, nếu diễn ra xung đột giữa các cường quốc quân sự, tàu sân bay sẽ bị đe dọa rất lớn và nhiều chiếc sẽ bị đánh chìm, tương tự như những gì diễn ra trong Thế chiến thứ hai.

Người nhái đặt mìn

Tàu USS Card (CVE-11)

Khi tàu sân bay neo đậu tại một cảng biển nào đó, có thể dùng người nhái lặn tới đặt mìn để đánh chìm tàu.

Trong khi neo đậu tại cảng Sài Gòn để bốc dỡ máy bay phục vụ chiến tranh, tàu sân bay hạng nhẹ USS Card (CVE-11) đã bị đánh chìm theo cách này. USS Card vốn là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp Bogue của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, rồi được cải biến thành một tàu sân bay tiện ích chuyên chở máy bay trực thăng.

Ngày 2 tháng 5 năm 1964, Chiến sĩ đặc công của Quân Giải phóng Miền NamLâm Sơn Náo thuộc lực lượng đặc công Sài Gòn-Gia Định đã bí mật lặn tới tàu, đặt 2 khối chất nổ, mỗi khối gồm 40 kg TNT và 2 kg C4. Hai khối thuốc nổ được đặt cách nhau 10m, áp chặt lườn tàu làm nổ tung hông tàu. USS Card bị đắm ở độ sâu 15 mét nước (độ sâu sông Sài Gòn tại cầu cảng). Cho tới nay, đây là tàu sân bay cuối cùng trong lịch sử Mỹ bị đối phương đánh chìm.

Tạp chí History and Headlines bình luận: "Dù là những người Mỹ yêu nước, chúng ta phải khen ngợi bất cứ ai có lòng can đảm đến mức độ đó. Lam Sơn Náo rõ ràng là một người đã chiến đấu vì tình yêu đất nước của ông ấy và xứng đáng được công nhận. Chỉ với công nghệ thấp và một kế hoạch đơn giản, ông đã nhấn chìm cả một con tàu khổng lồ, thực sự đó là một trong những kỳ công cá nhân tuyệt vời trong Lịch sử chiến tranh Hải quân"[9].

Việc đánh chìm tàu USNS Card là một chiến thắng vang dội của đặc công Việt Nam. Nó cho thấy các tàu hải quân khi đậu ở cảng sẽ rất dễ bị tổn thương, kể cả khi địch thủ chẳng hề có công nghệ hiện đại, đồng thời cũng cho thấy việc duy trì an ninh cảng khó khăn ra sao trong cuộc chiến không có mặt trận thật sự (chiến tranh du kích kiểu Việt Nam). James Holmes, nhà sử học hải quân của Trường Hải chiến Mỹ nói rằng không nên quá ngạc nhiên khi đối phương tấn công được tàu sân bay chỉ với một đặc nhiệm cài bom hẹn giờ: "Chúng ta không nên bị cuốn theo kiểu tư duy "tàu chiến là lâu đài bằng thép" bất khả xâm phạm… Phần lớn tàu chiến hiện đại đều có phần vỏ khá mỏng, trừ tàu sân bay cỡ lớn chạy bằng năng lượng hạt nhân. Do đó, một đặc nhiệm với một quả bom hẹn giờ đã quá đủ để khiến tàu chiến hư hỏng nặng"[10].

Thủy lôi

Muốn tấn công vào lãnh thổ địch, tàu sân bay thường phải ở cách bờ biển của đối phương không quá 1.000 km (ở xa hơn thì máy bay không thể vươn tới mục tiêu), đồng thời phải thường xuyên di chuyển giữa các vùng biển tùy theo nhiệm vụ mới. Do vậy, có thể phán đoán hướng di chuyển của tàu sân bay địch để rải thủy lôi.

Năm 1988, một quả thủy lôi kiểu cũ M-08 của Iran đã làm hỏng nặng tàu USS Samuel B. Roberts của Mỹ, cho thấy thủy lôi vẫn là mối nguy hiểm lớn với tàu chiến hiện đại

Thủy lôi là loại vũ khí đơn giản, dễ sử dụng nhưng đặc biệt nguy hiểm. Nó phù hợp với những nước có tiềm lực kinh tế - quân sự hạn chế, nhưng có vùng biển dài, rộng và có nhiều khả năng bị đe dọa quân sự từ hướng biển. So với thủy lôi truyền thống, thủy lôi hiện đại có thêm thiết bị cảm ứng để tự bị kích nổ khi tàu thuyền đến gần, và thường có kích thước lớn, chứa một lượng nổ rất mạnh. Các đầu nổ của thủy lôi hiện đại thường dựa vào cảm ứng với tác động mạnh của làn nước, với kim loại, với từ trường khi tàu thuyền đi qua... để chủ động tấn công dù tàu địch còn cách xa hàng km (không cần đợi tàu địch chạm vào như thủy lôi truyền thống).

Sau chiến tranh Thế giới 2, để đối phó với đội tàu sân bay Mỹ, những vũ khí hiệu quả như thủy lôi được Liên Xô/Nga tiếp tục đầu tư nghiên cứu phát triển. Những thủy lôi thông minh có cấu tạo phức tạp và cách "săn mồi" chủ động bắt đầu xuất hiện. Năm 1957, Liên Xô cho ra đời thủy lôi neo đầu tiên trên thế giới có khả năng tự cơ động đến mục tiêu bằng động cơ phản lực, đó là loại KRM. Đây thực ra là một quả mìn phản lực kết hợp với bộ neo, chúng được phóng qua ống phóng ngư lôi của tàu ngầm, bộ cảm biến áp lực sẽ giúp kích hoạt quả mìn phản lực hướng về phía mục tiêu. Do tính năng tự lao đến mục tiêu nên KRM không cần phải nổi sát mặt nước, nó có thể được neo ở độ sâu khoảng 100 mét, ngoài tầm của lưới quét trên tàu rà phá thủy lôi, nên việc định vị và phá hủy loại thủy lôi này là rất khó[11]

Đây cũng là cơ sở để Liên Xô phát triển thêm các loại thủy lôi có khả năng tự lao về phía mục tiêu như RM-1 (1961), RM-2 (1963) và PRM (1968). Trong đó, PMR-2/PMK-1 là những thủy lôi neo phóng từ tàu ngầm thế hệ 3, gồm bộ phận neo và một đạn phản lực tốc độ cao thay vì sử dụng ngư lôi. Các thủy lôi neo sẵn dưới đáy biển, sử dụng những sonar thụ động để nhận tín hiệu đặc trưng từ các con tàu và đối chiếu chúng với kho dữ liệu được tích hợp trong thủy lôi. Khi nhận ra mục tiêu phù hợp khớp với tín hiệu trong kho dữ liệu, thủy lôi sẽ nhả ra một đạn phản lực dẫn đường tốc độ cao để tấn công tiêu diệt mục tiêu. Sau này, Liên Xô/Nga sản xuất các mẫu thủy lôi UDM và bản cải tiến UDM-2, chúng có khối lượng lớn và mang theo nhiều chất nổ, như UDM-2 nặng khoảng 1,4 tấn, mang theo 800kg thuốc nổ, chỉ cần 1 quả trúng đích là có thể đánh chìm cả 1 tàu sân bay hạng nặng.[12]

Tất nhiên, tàu sân bay của đối phương luôn có tàu quét thủy lôi đi cùng để phòng ngừa. Tuy nhiên, do thủy lôi có giá khá rẻ nên bên phòng thủ có thể rải hàng vạn quả ở khắp nơi, thủy lôi hiện đại cũng áp dụng các biện pháp ngụy trang, neo ở độ sâu lớn để tránh lưới quét... nên việc rà phá thường rất khó và tốn nhiều thời gian[13]. Chỉ cần 1-2 quả thủy lôi không bị phát hiện là đã có thể đánh chìm hoặc đánh trọng thương chiếc tàu sân bay địch.

Ngư lôi phóng từ tàu ngầm

Chiếc USS Wasp của Mỹ bốc cháy và chìm năm 1942 sau khi trúng ngư lôi từ tàu ngầm Nhật.

Tàu ngầm là vũ khí tấn công có tính bí mật cao và một mối đe dọa lớn đối với tàu sân bay, kể cả khi tàu sân bay có nhiều tàu khu trục đi theo hộ tống. Trong Thế chiến thứ 2, hải quân Mỹ đánh chìm tổng cộng 20 tàu sân bay của Nhật, trong đó 12 là do bom ném từ máy bay, và 8 là do ngư lôi phóng từ tàu ngầm. Đổi lại, hải quân Đức, Nhật cũng đã dùng ngư lôi đánh chìm nhiều tàu sân bay của Mỹ, Anh. Hải quân Mỹ đã mất 12 tàu sân bay, trong đó 7 chiếc do trúng bom từ máy bay, 1 chiếc do trúng đạn đại bác và 4 chiếc là do ngư lôi phóng từ tàu ngầm Đức, Nhật. Hải quân Anh cũng mất 5 tàu sân bay do tàu ngầm Đức. Tổng cộng trong Thế chiến thứ 2, 17 tàu sân bay đã bị tàu ngầm bắn chìm (9 tàu sân tàu hạm đội, 8 tàu sân bay hạng nhẹ) khiến 12.500 thủy thủ thiệt mạng.[14]

Ngư lôi kiểu cũ thời thế chiến 2 dùng cơ chế chạm nổ để xuyên thủng thân tàu và cho nước tràn vào qua lỗ thủng đó. Trong khi đó, ngư lôi hiện đại phát nổ bên dưới đáy tàu, cách con tàu vài mét, tạo hiệu ứng bóng khí bẻ gãy con tàu làm đôi nên có thể tạo ra sức tàn phá lớn hơn nhiều. Hải quân Mỹ từng thực hiện nhiều mô phỏng để xem cần bao nhiêu ngư lôi để đánh chìm 1 tàu sân bay cỡ lớn, như Tàu sân bay lớp Nimitz của Mỹ. Họ ước tính sẽ cần khoảng 6 ngư lôi cỡ 533mm, ví dụ như loại Mk-48 với đầu đạn nặng 300 kg, để đánh chìm một tàu sân bay hạng nặng. Để đánh chìm một tàu sân bay hạng trung như chiếc Liêu Ninh của Trung Quốc, có thể sẽ cần khoảng từ 3 đến 4 ngư lôi cỡ 533mm. Các tàu ngầm hiện đại đều trang bị 6 (thậm chí 10) ống phóng ngư lôi 533mm với dự trữ 18-24 quả, nên hoàn toàn đủ khả năng đánh chìm tàu sân bay nếu có thể tiếp cận đủ gần mục tiêu. Một số loại tàu ngầm cỡ lớn của Liên Xô/Nga còn được trang bị loại ngư lôi hạng nặng cỡ 650mm với đầu đạn nặng 570 kg, có thể đánh chìm 1 tàu sân bay cỡ lớn chỉ với 2-3 quả trúng đích.

Từ sau Thế chiến thứ 2 đến nay, không một tàu sân bay nào bị đắm trong các hoạt động tác chiến, đơn giản chỉ là vì từ đó đến nay không có một cuộc xung đột trên biển cỡ lớn nào giữa các cường quốc hải quân. Tuy nhiên, các cuộc tập trận hoặc các sự kiện chạm trán cho thấy những tàu ngầm hiện đại có thể trở thành những sát thủ thực sự của tàu sân bay khi áp dụng chiến thuật phục kích, ẩn nấp:

  • Năm 1956, chiếc tàu ngầm C-360 Xô Viết (Lớp Whiskey theo phân loại của NATO) cũng từng cho nhô kính tiềm vọng ngay trước mũi tàu USS Des Moines của Mỹ. Trong những năm Chiến tranh lạnh, Tàu ngầm K-10 (Liên Xô) đã bám ngay dưới đáy tàu sân bay USS Enterprise của Mỹ suốt 13 tiếng đồng hồ mà tàu Mỹ không hề hay biết. Nếu đây là trận đánh thực sự, Tàu ngầm K-10 đã có thể phóng ngư lôi dễ dàng hạ gục chiếc tàu sân bay Mỹ.
  • Tháng 12/2005, đã diễn ra cuộc tập trận mang tên “Joint Task Force Exercise 06-2” với sự tham gia của chiếc tàu ngầm Thụy Điển “Gotland” được biệt phái đến Thái Bình Dương. Sau cuộc tập trận, Thụy Điển công bố những bức ảnh chụp tất cả các tàu trong cụm tàu sân bay tấn công của Mỹ, trong đó có tàu sân bay USS Ronald Reagan dẫn đầu đội hình. Con tàu ngầm Thụy Điển này đã lặn xuyên qua đội hình cụm tàu sân bay và chụp ảnh từng con tàu Mỹ ở cự ly gần mà các tàu chiến Mỹ không hề phát hiện ra.
  • Ngày 26/10/2006, khi nhóm tác chiến tàu sân bay USS Kitty Hawk của Mỹ đang diễn tập gần đảo Okinawa, Nhật Bản thì một tàu ngầm Type-039 (lớp Tống) của Trung Quốc bỗng nhiên nổi lên giữa đội hình của họ, cách tàu sân bay Mỹ chỉ 8 km. Hàng loạt chiến hạm hộ tống tàu USS Kitty Hawk, bao gồm cả tàu ngầm và tàu khu trục, đều không phát hiện được tàu ngầm Trung Quốc đang tiếp cận. Nếu trong tình huống tác chiến, tàu ngầm Type-039 này có thể dễ dàng hạ gục tàu sân bay Mỹ bằng ngư lôi hoặc tên lửa diệt hạm[15].
  • Năm 2007, 1 tàu ngầm điện – diesel của Hải quân Canada mang tên HMCS Corner Brook đã "đánh chìm" một tàu sân bay Illustrious trong diễn tập mô phỏng trên Đại Tây Dương.
  • Đầu năm 2015, tàu ngầm hạt nhân tấn công SNA Saphir của Hải quân Pháp mang số hiệu S602, thuộc lớp tàu ngầm tấn công hạt nhân Rubis đã tham gia diễn tập chung với Cụm tác chiến tàu sân bay số 12 của hải quân Mỹ, gồm tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN-71), cùng nhiều tàu tuần dương lớp Ticonderoga và tàu khu trục Aegis lớp Arleigh Burke và một tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Los Angeles. Tàu ngầm SNA Saphir đã đóng vai một tàu ngầm của đối phương, nó đã mất nhiều ngày rình rập và đã thành công trong việc vượt qua vòng bảo vệ bên ngoài dưới sự đe dọa liên tục từ máy bay tuần tiễu chống ngầm P-3C Orion và P-8A Poseidon của Hải quân Mỹ, các khu trục hạm lớp Arleigh Burke và các tàu hộ vệ chống ngầm khác. Tàu ngầm Saphir đã tránh né được sự phát hiện của lực lượng chống tàu ngầm, lặng lẽ áp sát chiếc tàu sân bay của Hải quân Mỹ và thực hiện phóng ngư lôi giả định. Nếu là một trận đánh thực sự, tàu ngầm Saphir sẽ đánh chìm tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và phần lớn các tàu hộ tống của nó.[16]
Một tàu ngầm không người lái cỡ nhỏTàu ngầm hạt nhân không người lái Status-6

Trong tương lai, tàu ngầm không người lái sẽ là vũ khí đầy nguy hiểm với tàu sân bay. Do không cần người lái bên trong nên chúng có thể ẩn nấp rất lâu bằng cách tắt máy, im lặng chờ đợi ở dưới lòng biển trong nhiều tháng (thậm chí nhiều năm). Rất khó phát hiện kiểu tàu này khi chúng ở chế độ im lặng, nhưng nếu tàu sân bay đối phương chạy tới gần thì chúng sẽ tự động triển khai tấn công một cách bất ngờ theo chiến thuật đã được lập trình sẵn.

Đi tiên phong trong việc trang bị tàu ngầm không người lái cho hoạt động quân sự là hải quân Nga. Năm 2018, Nga giới thiệu tàu ngầm hạt nhân không người lái Status-6tàu ngầm không người lái Cephalopod. Những tàu ngầm không người lái loại này được đánh giá là rất khó đánh chặn, bởi chúng có kích thước và độ ồn rất nhỏ, và có thể thực hiện được lộ trình ẩn nấp tinh vi dưới lòng biển nhờ có trí thông minh nhân tạo. Sau khi bơi tới vị trí đã định, chúng có thể tự động tắt máy rồi nằm im rất lâu dưới đáy biển giống như một khối đất đá bình thường. Vì không có người lái nên chúng chẳng cần phải nổi lên để tiếp tế lương thực và bơm oxi, và có thể nằm im như vậy trong suốt nhiều năm. Nhưng khi tàu sân bay đối phương chạy ngang qua, nhờ máy tính điều khiển đã được lập trình sẵn, chúng sẽ tự động kích hoạt ngư lôi để bất ngờ tấn công chỉ trong vài giây[17][18][19].

Tàu ngầm hạt nhân không người lái Status-6 được ước tính có vận tốc tối đa lên tới 100 km/h (54 kn), với tầm bơi xa tới 10.000 km (5.400 nmi; 6.200 mi) và độ sâu lặn lên tới 1.000 m (3.300 ft).[20] Status-6 có đường kính 1,6 mét và dài 24 mét.[21] So với tàu ngầm thông thường, Status-6 nhỏ hơn rất nhiều, lại được trang bị các công nghệ tàng hình khiến máy dò thủy âm của đối phương rất khó nhận biết.[22] Status-6 mang được đầu đạn có đường kính 1,6 mét và dài trên 4 mét, ước tính nặng khoảng 8 tấn, chứa chất nổ thông thường hoặc chất nổ hạt nhân. Kể cả khi chỉ mang chất nổ thông thường, sức nổ của đầu đạn nặng tới 8 tấn vẫn có thể dễ dàng đánh chìm 1 tàu sân bay cỡ lớn chỉ bằng 1 quả trúng đích.

Tàu ngầm không người lái có giá thành khá rẻ, có thể sản xuất nhanh và nhiều để bố trí phục kích khắp nơi, trong khi lại có nhiều ưu điểm vượt trội so với tàu ngầm truyền thống. Chúng sẽ trở thành mối đe dọa rất nghiêm trọng đối với tàu sân bay trong tương lai.

Tên lửa hành trình chống hạm

Trong Thế chiến thứ 2, nhiều tàu sân bay đã bị đánh chìm bằng bom ném từ máy bay. Ở thời kỳ này, để ném bom chính xác thì máy bay phải áp sát tàu sân bay địch để bổ nhào ném bom, máy bay tấn công phải tìm cách vượt qua hàng phòng thủ của máy bay tiêm kích và pháo phòng không trên đội tàu hộ tống đối phương. Do đó, ở thời kỳ này, để tiêu diệt một tàu sân bay bằng không quân thì cần phải huy động ít nhất vài chục máy bay tấn công cùng lúc, và lực lượng tấn công thường phải chịu thiệt hại lớn về máy bay.

Tàu sân bay USS Princeton (CVL-23) bị nổ tung và chìm sau khi bị 1 máy bay Kamikaze lao trúng

Cuối thế chiến thứ hai, Nhật Bản đã sử dụng các phi công cảm tử Kamikaze (Thần Phong) có nhiệm vụ lái máy bay mang bom lao thẳng vào tàu chiến Mỹ. Đây có thể coi là một dạng tên lửa hành trình chống hạm sơ khai. So với tên lửa chống hạm thực thụ, các máy bay Kamikaze có nhiều thiếu sót (không thể bay tự động, không thể bay sát mặt biển để tránh rađa, vận tốc chỉ đạt 500 km/h, kích thước khá lớn nên dễ bị trúng đạn phòng không). Nhưng ngay cả với những thiếu sót đó, các phi cơ Thần Phong vẫn lập nên nhiều chiến tích lớn. Dù không quân Mỹ thường xuyên bay tuần tra và được hộ tống bởi các tàu khu trục có hệ thống phòng không dày đặc, đội tàu sân bay Mỹ vẫn bị thiệt hại nặng bởi Kamikaze. Các phi cơ Thần Phong đã thành công trong việc đánh chìm 3 chiếc tàu sân bay hộ tống, đánh hỏng nặng rất nhiều tàu sân bay khác (gồm 15 lượt tàu sân bay hộ tống, 3 tàu sân bay hạng nhẹ và 21 lượt tàu sân bay cỡ lớn), đó là chưa kể hơn 40 tàu chiến các loại khác bị đánh chìm và hơn 360 tàu các loại khác bị đánh hỏng nặng bởi Thần Phong. Thành tích của các Thần Phong báo hiệu nguy cơ lớn đối với tàu sân bay từ các cuộc tấn công bằng tên lửa của đối phương.

Hiện nay, vai trò của máy bay ném bom bổ nhào đã được tên lửa chống hạm thay thế, nó đã trở thành loại vũ khí chính cho tác chiến trên biển. Tên lửa diệt hạm hiện đại có tầm bắn xa, lên đến mấy trăm km, thậm chí cả 1.000 km. Thời gian di chuyển đến mục tiêu ngắn nhờ vào tốc độ cao, có thể đạt vận tốc siêu thanh (Supersonic), thậm chí đạt siêu vượt âm (Mach 5 tới Mach 10, tức là gấp 5 tới 10 lần tốc độ âm thanh, khoảng 5.500 - 11.000 km/h), khiến cho đối phương chỉ có khoảng 1-3 phút để triển khai đánh chặn. Tên lửa chống hạm hiện đại cũng có khả năng "sea-skimming", tức là bay bám sát mặt biển (chỉ ở cách mặt biển 5 - 10 mét) nên radar của đối phương rất khó phát hiện.

Cho đến nay, các tàu chiến trên thế giới vẫn chưa có biện pháp hiệu quả nào để chống lại chiến thuật tấn công bão hòa bằng tên lửa chống hạm siêu thanh. Chiến thuật này được tiến hành bằng cách phóng cùng lúc hàng chục, thậm chí hàng trăm quả tên lửa chống hạm nhắm vào duy nhất 1 chiếc tàu sân bay. Do chỉ có tối đa 3 phút để đánh chặn, các hệ thống phòng không trên tàu chiến địch sẽ bị quá tải vì số lượng mục tiêu phải đánh chặn quá lớn, chỉ cần để sót 1 phần số tên lửa là đủ để chiếc tàu sân bay bị đánh chìm. Tạp chí National Interest dẫn lời Tổng biên tập kiêm nhà phân tích quân sự Harry J. Kazianis rằng, tàu sân bay mới nhất của Hải quân Mỹ USS Gerald Ford có chi phí 15 tỷ USD cũng có thể bị biến thành "nấm mồ nhiều tỷ USD cho hàng nghìn thủy thủ Hoa Kỳ" bởi nó có thể bị tấn công với số lượng lớn tên lửa đối hạm siêu âm từ khoảng cách xa.[23]

Đa số các tên lửa diệt hạm sử dụng cơ chế xuyên phá và nổ chậm để tối đa hoá mức độ thiệt hại, nghĩa là nó dùng động năng của mình để xuyên thủng lớp vỏ ngoài của tàu (giống như 1 viên đạn), và sau đó đầu đạn chứa hàng trăm kg chất nổ sẽ phát nổ khi đã chui sâu vào bên trong con tàu, tạo ra sức phá hủy lớn hơn nhiều so với bom thông thường. Một số tên lửa chống hạm hiện đại có vận tốc cực cao, đạt mức siêu vượt âm (như 3M22 Zircon của Nga có vận tốc đạt tới 2,7 km/giây), vận tốc này cũng giúp tăng sức tàn phá của tên lửa khi va chạm vào mục tiêu. Theo tính toán, 1 tên lửa nặng 2 tấn, bay với vận tốc 2,5 km/giây như 3M22 Zircon sẽ tạo ra động năng đạt tới 12,5 tỷ jun (tương đương sức nổ của 2,7 tấn thuốc nổ TNT), động năng này có thể bẻ gãy đôi hoặc làm hư hại nặng cả 1 tàu sân bay cỡ lớn, ngay cả khi đầu đạn của tên lửa chưa phát nổ.

Tàu sân bay có một bất lợi ở chỗ: máy bay chiến đấu mà nó mang theo bị giới hạn về tầm hoạt động (mang quá nhiều nhiên liệu thì sẽ nặng và không cất cánh được), tầm đánh chặn có cự ly tối đa tính từ tàu sân bay của không quân trên tàu sân bay là không quá 700 km (nếu dùng máy bay tiếp dầu thì không quá 1.000 km). Tên lửa phòng không trên tàu khu trục hộ tống có tầm bắn còn ngắn hơn, không quá 400–500 km. Nếu tên lửa chống hạm có tầm bắn xa hơn cự ly này, có thể tấn công tàu sân bay địch mà không bị phản kích. Đây chính là yếu tố quan trọng để khai thác, hoạch định phương án tấn công tàu sân bay địch. Với sự phát triển của công nghệ tên lửa, các loại tên lửa chống hạm hiện đại đã đạt tầm bắn trên 1.000 km, nằm ngoài cự ly mà tàu sân bay địch có thể đánh trả[24]

Tên lửa chống hạm Exocet đã đánh chìm 1 tàu sân bay hạng nhẹ trong thực chiến

Tên lửa diệt hạm hiện đại có mức độ bộc lộ radar rất nhỏ, lại được lập trình để bay rất thấp, gần sát mặt biển (để tránh bị radar tàu chiến phát hiện từ xa). Do vậy, việc đánh chặn tên lửa diệt hạm là một nhiệm vụ rất khó, ngay cả với tàu chiến có hệ thống phòng không hiện đại. Thực tế chiến tranh Falkland 1982 và chiến tranh Vùng Vịnh 1991 cho thấy: chỉ 1-2 quả tên lửa chống hạm Exocet bay sát mặt biển với vận tốc Mach 0,9 đã đủ khiến tàu khu trục hiện đại của hải quân Anh, Mỹ không thể đánh chặn và bị đánh trúng. Tên lửa diệt hạm kiểu mới còn mạnh hơn nhiều so với Exocet, chúng bay sát mặt biển với vận tốc siêu thanh (trên Mach 3), nên có thể tiêu diệt cả 1 nhóm tác chiến tàu sân bay đối phương một cách không quá khó khăn. Cụ thể, một phi đội gồm khoảng 10-20 máy bay (mỗi chiếc mang theo 2-3 tên lửa) có thể tung ra đợt tấn công gồm 40-60 tên lửa chống hạm siêu âm phóng cùng lúc, các tàu khu trục hộ tống của địch sẽ không kịp đánh chặn hết, chỉ cần 1/6 số tên lửa lọt qua được là đủ để đánh chìm 1 tàu sân bay cỡ lớn.

Chiến tranh Falkland 1982 cho thấy tên lửa chống hạm là mối đe dọa rất nguy hiểm với tàu sân bay. Tàu SS Atlantic Conveyor là 1 tàu vận tải 15.000 tấn được cải biến thành tàu sân bay hạng nhẹ, có thể mang theo 11 trực thăng và 14 máy bay Harrier Jump Jet. Không quân Argentina đã phóng 2 quả tên lửa Exocet để tấn công SS Atlantic Conveyor. Các tàu khu trục Anh hộ tống chiếc Atlantic Conveyor đã không thể đánh chặn 2 quả tên lửa Exocet do tên lửa bay áp sát mặt biển, và chiếc tàu sân bay này đã bị đánh trúng[25] 10 trực thăng trên tàu Atlantic Conveyor bị phá hủy, bản thân chiếc tàu bị hỏng nặng và chìm sau đó 3 ngày. Sự kiện này khiến hải quân các nước rất quan tâm đến tiềm năng của tên lửa chống hạm. Exocet vốn chỉ là tên lửa chống hạm hạng nhẹ bay cận âm, vậy mà 2 quả tên lửa đã đánh chìm 1 tàu sân bay hạng nhẹ, như vậy nếu phóng hàng chục quả thì hoàn toàn có thể đánh chìm cả 1 tàu sân bay cỡ lớn[26]

Với mục tiêu đánh bại Hải quân Mỹ trong trường hợp nổ ra chiến tranh, Liên Xô và Nga đã phát triển nhiều loại tên lửa chống hạm hạng nặng siêu thanh và siêu xa, chuyên diệt tàu sân bay, nhằm tiêu diệt chớp nhoáng cụm tàu sân bay Mỹ. Ngay từ năm 1953, Liên Xô đã bắt đầu trang bị tên lửa chống hạm cho không quân, đó là loại KS-1 Komet trang bị cho máy bay Tupolev Tu-4Tupolev Tu-16. Loại tên lửa chống hạm đời đầu này có tầm bắn khoảng 100 km, vận tốc Mach 0,9 và mang đầu đạn 600 kg. Ở giữa thập niên 1950, tàu chiến chỉ có pháo cao xạ là vũ khí phòng không chủ yếu, nên KS-1 Komet thật sự là một vũ khí tấn công khá nguy hiểm.

Tu-22 mang tên lửa chống hạm hạng nặng tầm xa Kh-22

Với sự phát triển của công nghệ, các loại tên lửa chống hạm của Liên Xô ngày càng có tầm bắn xa hơn, tốc độ nhanh hơn. Trong thập niên 1960, KS-1 Komet đã được thay thế bởi tên lửa Raduga Kh-22 (tiếng Nga: Х-22; AS-4 'Kitchen'). Đây là một loại tên lửa chống hạm cỡ lớn, uy lực rất mạnh với tầm bắn rất xa (600–700 km), tốc độ gấp 4 lần vận tốc âm thanh, và mang đầu đạn nặng gần 1 tấn. Tạp chí Australian Air Power miêu tả Kh-22 là "một vũ khí khủng khiếp ở mọi giới hạn". Máy bay được sử dụng chính để mang tên lửa là Tu-22M 'Backfire'.[27][28] nhưng Nga cũng sử dụng Тu-22К 'Blinder-B' và Tupolev Tu-95К22 'Bear-G' để mang Kh-22.

Trong thập niên 1970-1980, Liên Xô duy trì trong biên chế 10 sư đoàn không quân chiến lược, mỗi sư đoàn trang bị 20 chiếc máy bay ném bom hạng nặng tầm xa Tu-22M. Trong trường hợp xảy ra chiến tranh với Mỹ, cứ mỗi nhóm tàu sân bay của Mỹ (gồm 1 tàu sân bay và 4-12 tàu khu trục hộ tống), Liên Xô/Nga sẽ huy động 1 sư đoàn không quân chiến lược với khoảng 25 chiếc Tu-22M (mỗi chiếc mang 3 tên lửa Kh-22) để tấn công. Mỗi tên lửa Kh-22 có vận tốc nhanh gấp 4 lần vận tốc âm thanh, giai đoạn cuối tên lửa bay rất sát mặt biển nên rất khó đánh chặn. Với 75 tên lửa phóng tới gần như cùng lúc, dù hệ thống phòng không của các tàu khu trục hộ tống Mỹ rất mạnh nhưng cũng không thể đánh chặn hết cả 75 tên lửa được. Chỉ cần 3-4 tên lửa lọt qua hệ thống phòng thủ và đánh trúng đích (mỗi tên lửa nặng 6 tấn cùng đầu đạn nặng 1.000 kg) là đủ để đánh chìm chiếc tàu sân bay Mỹ (thử nghiệm cho thấy với vận tốc là 800 m/s[29][30][31], tương đương vận tốc của 1 viên đạn súng trường, quả tên lửa Kh-22 sẽ giống như 1 viên đạn khổng lồ lao xuyên qua vỏ tàu, đục thủng một lỗ đường kính 5 mét và sâu 12 mét vào trong thân tàu, trước khi đầu đạn nặng 1.000 kg phát nổ sẽ phá tung các khoang tàu từ bên trong, thậm chí có thể xé đôi con tàu[32],[33]). Tên lửa phòng không trên tàu chiến Mỹ thời kỳ đó có tầm bắn tối đa khoảng 100 km, trong khi những chiếc F/A-18 Hornet của tàu sân bay Mỹ chỉ có bán kính tác chiến khoảng 600 km, do vậy Tu-22 có thể tấn công tàu sân bay Mỹ từ cự ly mà máy bay hoặc tên lửa phòng không Mỹ không thể bắn tới. Trong tiểu thuyết The Sum of All Fears, các nhà nghiên cứu quân sự phương Tây đã xây dựng kịch bản chiến tranh Liên Xô - Mỹ, trong đó một nhóm Tu-22M đã phóng Kh-22 đánh chìm tàu sân bay USS John C. Stennis ngay từ giờ đầu tiên của cuộc chiến.

Tàu ngầm lớp Oscar II mang 24 tên lửa P-700 Granit, có thể tấn công tàu sân bay từ cự ly 600 km Tàu ngầm lớp Yasen mang 50 tên lửa 3M22 Zircon, có thể tấn công tàu sân bay từ cự ly 1.000 km

Ngoài ra, Liên Xô còn đưa vào trang bị tên lửa P-700 Granit để trang bị cho các tàu nổi và tàu ngầm. Loại tên lửa này có tầm bắn, vận tốc và sức công phá tương đương với Kh-22. Mỗi chiếc tàu ngầm tấn công lớp Oscar II có thể mang 24 quả P-700, một hải đội 3 tàu Oscar II có thể tấn công đội tàu sân bay Mỹ với 72 quả P-700 phóng cùng lúc từ cách xa 600 km, tương tự như kịch bản với Tu-22. Ở cự ly rất xa này, khả năng những chiếc Oscar II bị Mỹ phát hiện là khá thấp (sonar dò tìm tàu ngầm của các tàu chiến Mỹ có cự ly phát hiện không quá 200 km), chúng có thể phóng tên lửa rồi rút lui an toàn mà không sợ bị quân Mỹ đánh trả.

Đến đầu thế kỷ XXI, Nga tiếp tục cải tiến những loại tên lửa chống hạm từ thời Liên Xô và cho ra đời những tên lửa mới có tốc độ và tầm bắn còn cao hơn nữa, tăng thêm khả năng chọc thủng hệ thống phòng ngự của tàu sân bay. Năm 2016, Nga đã cho ra đời tên lửa diệt hạm bội siêu thanh (Hypersonic) 3M22 Zircon trang bị cho tàu chiến hải quân Nga. Về tầm bắn, tên lửa Zircon có thể lên tới khoảng 1.000 km, vượt xa tầm bắn của các loại tên lửa phòng không và máy bay đánh chặn của Hải quân Mỹ (máy bay F/A-18 Super Hornet trên các tàu sân bay Mỹ chỉ có bán kính đánh chặn tối đa là 772 km, tức là Nga có thể tấn công cụm tàu sân bay Mỹ từ cự ly mà máy bay đối phương không thể bắn trả[34]). Về tốc độ, Zircon có vận tốc cực nhanh, gấp 8 lần vận tốc âm thanh (tương đương 2,7 km/giây), với tốc độ cực lớn này, việc đánh chặn Zircon là gần như không thể với các công nghệ phòng không hiện nay[35][36]. Ngoài ra, vận tốc cực nhanh khiến tên lửa được bao phủ hoàn toàn bởi một đám mây plasma trong khi bay, đám mây này sẽ hấp thụ bất kỳ sóng vô tuyến nào và khiến tên lửa trở nên vô hình trước radar (tàng hình Plasma), càng làm tăng thêm độ khó trong việc đánh chặn Zircon[37]. Tờ Daily Mail của Anh nhận định, tốc độ của tên lửa 3M22 Zircon nhanh gấp đôi tốc độ tối đa mà tên lửa phòng không Sea Ceptor (được trang bị trên tàu sân bay mới nhất HMS Queen Elizabeth của Hải quân Hoàng gia Anh) có thể đánh chặn[23]. Đại diện Hải quân Mỹ, tướng Paul Berk và giới lãnh đạo Quân đội Anh hồi tháng 7/2017 cũng đã công nhận rằng, Anh và Mỹ hiện chưa thể phát triển được những hệ thống phòng không có thể đánh chặn tên lửa Zircon[38]

Theo tính toán của các chuyên gia, chỉ cần 2 quả tên lửa Zircon tấn công một cụm gồm 1 tàu sân bay cùng 2 chiếc khu trục hạm hiện đại của Mỹ cũng có thể đánh hỏng nặng hoặc đánh chìm ít nhất 1 tàu trong đội hình với xác suất 70 - 80%, một loạt phóng 4 tên lửa thì đảm bảo đánh trúng cả hai tàu. Nếu tàu khu trục Nga phóng cả một loạt 16 quả tên lửa 3M22 Zircon thì đảm bảo tiêu diệt tàu sân bay đối phương với xác suất 80 - 85%, và cùng với nó là từ 2 đến 3 chiếc tàu hộ tống cũng bị tiêu diệt[39]. Mỗi chiếc tàu ngầm tấn công lớp Yasen của Nga có thể mang theo 40 hoặc 50 tên lửa Zircon, nếu phóng toàn bộ số tên lửa này thì có thể tiêu diệt toàn bộ cả một cụm tàu sân bay của địch (gồm 1 tàu sân bay cùng với 8 tàu khu trục hộ tống cho nó).

Cũng trong năm 2016, Nga đưa vào trang bị tên lửa Raduga Kh-32 trang bị cho lực lượng không quân chiến lược. Kh-32 là phiên bản hiện đại hóa của Kh-22 với tầm bắn được nâng cao, đạt tới 1.000 km. Nó có thể đạt đến trần bay là 40.000 m (88,580 ft), tức là đạt tới độ cao tầng bình lưu và trong giai đoạn cuối nó sẽ bổ nhào xuống mục tiêu với tốc độ bội siêu thanh, đạt tới trên Mach 5 (hơn 5.000 km/h). Với tốc độ này, hệ thống phòng không tên tàu chiến đối phương rất khó có thể đánh chặn Kh-32[40]

Máy bay ném bom chiến lược Tu-22M3 chuyên mang tên lửa diệt tàu sân bay

Kịch bản tác chiến với tàu sân bay Mỹ được mô phỏng như sau: Máy bay ném bom Tu-22M3M sẽ tiếp cận nhóm tàu sân bay Mỹ ở cự ly khoảng 1.000 km rồi phóng tên lửa, cự ly này là khá an toàn vì máy bay F/A-18 Super Hornet trên các tàu sân bay Mỹ chỉ có bán kính đánh chặn tối đa là 772 km. Sau khi được phóng, Kh-32 leo lên độ cao đến 40 km và bắt đầu bay và cơ động trên mặt phẳng ngang. Khi bay ở chế độ này, tên lửa an toàn tuyệt đối, bởi tên lửa phòng không hiện đại nhất của Mỹ là RIM-174 SM-6 ERAM (trang bị năm 2013) bố trí trên các tàu khu trục lớp Arleigh Burke trong hệ thống “Aegis” cũng chỉ có độ cao đánh chặn tối đa là 33 km. Các tên lửa đánh chặn như SM-3, SM-6 thì có thể đạt tới độ cao này, nhưng chúng được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo chứ không thể đánh chặn được tên lửa hành trình. Radar của hệ thống “Aegis” có thể phát hiện được cuộc tấn công khi Kh-32 ở cự ly 230–270 km, lúc đó chỉ còn dưới 3 phút để tàu chiến Mỹ triển khai đánh chặn. Trong khoảng thời gian rất ngắn này, 2 tàu khu trục Mỹ có thể kịp bắn khoảng 20-30 quả tên lửa phòng không, tuy nhiên do vận tốc của Kh-32 rất cao (Mach 5) nên chỉ có thể đánh trúng khoảng 4 tên lửa Kh-32. Như vậy, một loạt phóng 6 quả tên lửa Kh-32 gần như chắc chắn sẽ phá hủy được 2 tàu khu trục lớp Arleigh Burke, phóng 12 quả Kh-32 thì có khả năng đánh chìm 1 tàu sân bay và 2 tàu tàu khu trục hộ tống. Nếu phóng loạt lớn (24 quả Kh-32) thì có khả năng đánh chìm 1 tàu sân bay và 3 tàu khu trục hộ tống với xác suất đạt tới 75-85%[41][42]

Với sự tiến bộ của công nghệ, không chỉ Liên Xô/Nga mà ngày nay nhiều nước như Iran, Trung Quốc, Ấn Độ... cũng có trong biên chế nhiều loại tên lửa chống hạm siêu thanh, tính năng khá mạnh như Moskit, BrahMos, YJ-62, 3M-54 Klub... Tuy tính năng chưa đạt đến mức độ của Kh-22 hoặc 3M22 Zircon, nhưng cũng đủ khả năng bắn hạ tàu sân bay nếu được phóng đồng loạt với số lượng lớn.

Tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay

Đầu thế kỷ 21, bên cạnh tên lửa hành trình chống hạm, một số cường quốc đã phát triển vũ khí chống tàu sân bay mới, đó là tên lửa đạn đạo chống hạm.

Tên lửa đạn đạo siêu vượt âm Kh-47M2 Kinzhal trang bị cho tiêm kích đánh chặn tầm xa MiG-31BM

Khả năng dùng [[tên lửa đạn đạo để tiêu diệt tàu sân bay đã được Liên Xô nghiên cứu từ năm 1960, tuy nhiên tên lửa đạn đạo thời đó không có khả năng đánh trúng mục tiêu di chuyển, vì vậy cần phải trang bị đầu đạn hạt nhân cho tên lửa, điều này sẽ dẫn tới rủi ro chiến tranh hạt nhân. Đến đầu thế kỷ 21, với sự phát triển của công nghệ tên lửa, tên lửa đạn đạo đã có khả năng thay đổi quỹ đạo bay và đánh trúng được mục tiêu di động. Vì vậy, tên lửa đạn đạo diệt tàu sân bay trở thành một hướng mới trong tác chiến chống tàu sân bay.

So với tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo hiện đại có một số ưu điểm như: có thể mang được đầu đạn rất lớn (khoảng 1-2 tấn), tầm bay xa (có thể đạt trên 5.000 km), tốc độ đạt mức siêu vượt âm (gấp 10-20 lần tốc độ âm thanh), bay ở độ cao lớn (trên 25 km) nên các hệ thống phòng không rất khó đánh chặn. Tốc độ siêu vượt âm cũng làm tăng sức sát thương của tên lửa đạn đạo: 1 quả tên lửa nặng 5 tấn khi bổ nhào với vận tốc 3 km/giây sẽ tạo ra một động năng cực lớn (khoảng 45 tỷ jun), tương đương năng lượng của 10 tấn thuốc nổ TNT, có thể đánh gãy đôi cả 1 chiếc tàu sân bay mà không cần đầu đạn phát nổ.

Năm 2018, Nga đưa vào trang bị loại tên lửa siêu vượt âm Kh-47M2 Kinzhal trang bị cho tiêm kích đánh chặn tầm xa MiG-31BM. Tên lửa có các tính năng thậm chí còn vượt xa so với Raduga Kh-323M22 Zircon. Kh-47 có tầm bắn lên tới 2.000 km, vượt xa tầm đánh chặn của máy bay trên tàu sân bay đối phương. Vận tốc của Kinzhal đạt tới Mach 10 (~3.400 m/s), quỹ đạo bay có thể thay đổi liên tục khiến cho các hệ thống phòng không hiện đại trên tàu chiến đối phương gần như không thể đánh chặn được[43] Kh-47M2 Kinzhal có thể trang bị cho tiêm kích hạng nặng MiG-31 (mỗi chiếc mang được 1 tên lửa) hoặc máy bay ném bom hạng nặng Tu-22M3M (mỗi chiếc mang được 4 tên lửa). Khi được trang bị trên các loại máy bay này, cộng thêm với sự hỗ trợ của máy bay tiếp nhiên liệu trên không, không quân Nga có thể tấn công đội tàu sân bay đối phương từ khoảng cách trên 5.000 km tính từ sân bay, một phi đội Nga từ Viễn Đông có thể tấn công chớp nhoáng một đội tàu sân bay Mỹ ngay từ khu vực giữa Thái Bình Dương.

Ngoài Kinzhal, Nga còn có thiết bị lượn siêu vượt âm Avangard. Hiện các thông số của Avangard không được công bố, nhưng người ta cho rằng nó có thể đạt vận tốc Mach 20 và có thể tấn công chính xác mục tiêu từ khoảng cách vài nghìn km. Năm 2018, Tư lệnh Bộ chỉ huy chiến lược Mỹ John Hyten đã phát biểu rằng Mỹ hiện "không có biện pháp phòng thủ nào có thể chống lại đợt tấn công bằng vũ khí siêu vượt âm" giống như Kinzhal và Avangard[44].

Tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D của Trung Quốc, năm 2015.

Trung Quốc cũng đã phát triển các loại tên lửa đạn đạo chống hạm dựa trên mẫu DF-21 (Đông Phong-21) từ năm 2005[45]. Loại tên lửa này được phóng từ bệ phóng di động trên mặt đất, có tầm bắn trên 1.500 km, mang đầu đạn nặng khoảng 600 kg. Tên lửa được trang bị đầu dò radar chủ động nên có khả năng tấn công chính xác tàu sân bay đang di chuyển[46][47] Với tầm bắn của DF-21, Trung Quốc sẽ có khả năng ngăn chặn việc hàng không mẫu hạm của Mỹ tấn công vào lãnh thổ nước này hoặc vào eo biển Đài Loan.[48] Phiên bản cải tiến mới nhất là DF-21D được trang bị thêm nhiều đầu đạn mồi để đánh lừa radar của tàu địch, ngoài ra, đầu đạn của DF-21D có thể lao xuống mục tiêu với tốc độ Mach 10, tương đương 12.000 km/giờ nên rất khó khăn cho việc đánh chặn. Theo truyền thông Mỹ, tới năm 2018, Trung Quốc đã trang bị ít nhất 10 lữ đoàn tên lửa Đông Phong-21 (mỗi lữ đoàn có 6 tiểu đoàn). 60 tiểu đoàn này có thể đồng thời phóng được 360 quả tên lửa đạn đạo DF-21, đủ để thực hiện cuộc tấn công đồng loạt đối với 3 đội tàu sân bay Mỹ (mỗi tàu sân bay sẽ bị tới 120 tên lửa nhắm vào, khiến các hệ thống phòng thủ của đội tàu sân bay Mỹ không kịp đánh chặn hết)[49]. Một giáo sư tại Học viện Hải quân Mỹ đã nhận định rằng với DF-21D, tàu sân bay Mỹ sẽ không còn vị thế độc tôn trên biển như đã từng có kể từ kết thúc Thế chiến II.[50]

Năm 2015, Trung Quốc tiếp tục phát triển mẫu DF-26 (Đông Phong-26). So với DF-21, DF-26 có tầm bắn lớn hơn nhiều, ước tính đạt tới 3.000 - 5.000 km. Với tầm bắn này, các bệ phóng ở miền đông Trung Quốc có thể tấn công tàu sân bay Mỹ ở tận căn cứ ở Guam. DF-26 cũng có thể mang đầu đạn nặng tới 1,2 - 1,8 tấn (gấp 2-3 lần so với DF-21D), đủ sức đánh chìm cả 1 tàu sân bay cỡ lớn chỉ với 1-2 quả trúng đích[51]

Hiện nay, số lượng các quốc gia có thể chế tạo tên lửa chống hạm ngày càng tăng, vận tốc tên lửa ngày càng nhanh, tầm bắn ngày càng xa. Giá thành tên lửa cũng khá rẻ (chỉ khoảng 500 ngàn - 2 triệu USD/quả), trong khi mỗi chiếc tàu sân bay kèm theo máy bay trị giá tới 10 tỷ USD (chưa kể chi phí nhân mạng nếu tàu chìm). Nhiều quốc gia hiện nay đã có thể chế tạo hàng ngàn quả tên lửa chống hạm chỉ trong vài tháng, trong khi để đóng 1 tàu sân bay phải mất ít nhất khoảng 2 năm, nên dù tiêu tốn hàng trăm quả tên lửa để diệt 1 tàu sân bay thì cũng đã có lợi thế lớn. Do tương quan chi phí ngày càng bất lợi cho tàu sân bay, nhiều chuyên gia quân sự cho rằng tàu sân bay sẽ trở nên lỗi thời trong chiến tranh hiện đại vào khoảng giữa thế kỷ XXI, giống như số phận của các thiết giáp hạm trong Thế chiến thứ hai.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tàu_sân_bay http://www2.chinadaily.com.cn/english/doc/2005-04/... http://books.google.com/books?id=GYGV3VOUgxoC&pg=P... http://www.janes.com/article/54029/china-showcases... http://www.popularmechanics.com/military/weapons/a... http://www.scmp.com/portal/site/SCMP/menuitem.2af6... http://www.strategypage.com/dls/articles/200632525... http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.as... http://news.yahoo.com/s/ap/20100805/ap_on_re_as/as... http://www.uscc.gov/hearings/2010hearings/written_... http://defencelover.in/top-russian-general-reveals...